sơn trà
Tổng số bài gửi : 221 Join date : 01/01/2010
| Tiêu đề: Đọc lại “Ta Về” của Tô Thùy Yên Mon Jul 30, 2012 1:44 am | |
| .. Được gặp nhà thơ Tô Thùy Yên một lần tại Houston. (Hôm Nhà thơ Phan Xuân Sinh ra mắt sách “Sống Với Thời Quá Vãng”). Buổi trò chuyện tại nhà anh Sinh đến nửa đêm, trong tiếng đàn thùng của anh Ngu Yên, giọng ngâm không dứt của anh Trần Khánh Hoà, liên khúc Trần Thiện Thanh do anh Đỗ Xuân Quang-Atlanta bắt nhịp. Anh Trần Hoài Thư, Trần Phù Thế, Lương Thư Trung, Hoàng Định Nam, Trà Nguyễn… có cả, mỗi người mỗi vẻ ngây thơ trong đôi mắt già nua bất luận. Một đêm bằng hữu sẽ còn hoài trong ký ức những người dính líu tới con chữ ở hải ngoại. http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2010/05/To-Thuy-Yen.png Nhà thơ Tô Thùy Yên. Tranh: Bảo Huân Ngoài hiên, Nhà thơ Tô Thùy Yên trò chuyện cùng tôi và Đinh Yên Thảo như những người quen gặp lại. Dù chỉ gặp lần đầu, trong chữ “Duyên” cửa Phật mà thành lấn cấn tới hôm nay. Ngồi đọc lại bài thơ “Ta Về” trong tiết tháng Tư, nơi sân sau nhà vắng. Chút gió xuân nồng nàn nhà bên cắt cỏ… Giấc mơ chiều, người nông dân chỉ mong được về quê vỡ đất, tháng tư đi tậu trâu bò/ để ta tiếp tục làm mùa tháng năm… “Ta Về” là một bài thơ, bài hịch… không quan trọng. Điểm cốt yếu của một giai đoạn lịch sử bi hùng gói ghém trong đó qua câu chữ chắt chiu từ chiến tranh và tù đày – không – chưa đủ. Còn có một trái tim và tri thức làm chất liệu để hình thành nên tác phẩm để đời này. Giả sử, không có cuộc chiến Việt Nam. Thơ ca miền Nam vẫn có Tô Thùy Yên nhưng không có bài thơ “Ta Về”. Áng văn vần chiêu hồn bại sĩ, tổ quốc trong tâm thức một người đi qua chiến tranh và hệ lụy. Cuộc chiến thắng súng đạn của kẻ ác nhưng không thắng nổi những người bất bại, không thắng nổi tri thức và tâm thức miền Nam. Không biết một người đời sau, thiếu hít thở không khí đạn mìn, mùi máu tươi trên những xác người vô tội. Không được “khiêu vũ với bầy sói” trong những nhà tù cải tạo… có làm lệch lạc, thô thiển, hiểu sai những lời bi thống về lịch sử được vắt ra từ tâm thức người viết. Dù sao, thơ, không viết cho mình. Xin mạn phép thăm tìm lịch sử qua thi phẩm “Ta Về”. Ta về một bóng trên đường lớn Thơ chẳng ai đề vạt áo phai Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay Ta Về, từ tuyệt vọng trong tâm cảnh ngậm ngùi, khắp cùng đổ vỡ, tang thương. Nhưng không bi lụy, thề. Sự hào sảng của kẻ sĩ “Thơ chẳng ai đề vạt áo phai” không còn ý nghĩa của thắng-bại, tiếng cười sảng khoái cất lên ngay trên đầy đoạ, khổ đau của chính mình. Nỗi đau “mềm phế phủ” không phải ai cũng chịu nổi, càng không phải là những tháng năm tù đày. “Bỗng nghe/ đau/ mềm phế phủ” trước vật đổi sao dời sau mười năm xa vắng, mười năm lao cải, mười năm đá cũng ngậm ngùi thay… Không tố cáo, không luận tội bằng trăm câu, ngàn chữ. Nhưng giá trị cáo trạng nằm trong chữ “thay”. Đá cũng ngậm ngùi thay, huống chi lòng người. Ai làm ra nông nổi này? Triều đại có hưng vong, chiến tranh có kết thúc. Lịch sử có sự công bằng cho con chữ thẳng ngay, không tố giác nhưng không khuất phục, bỏ qua… Thái độ bình tâm nhả chữ khi viết về lịch sử là khí độ của người cầm viết. Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu Mười năm mặt sạm soi khe nước Ta hoá thân thành vượn cổ sơ Mười năm sống như đã chết. Sự trả thù có thể biến người ta thành “vượn cổ sơ”, có thể đầy đoạ hơn nữa, tới chết. Nhưng người tù đã thắng cao ngạo sự trả thù đó. Lời thơ chỉ giản đơn “vĩnh biệt ta mười năm chết dấp/ chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu.” Sao lại có người bị người khác biến thành “vượn cổ sơ” suốt mười năm, mà không hề thù hận. Chỉ quên đi thôi. Có lẽ làm gì được khi con người rơi vào hoàn cảnh phải sống chung với loài vô trí vô tri, như vượn cổ sơ là những tên cai ngục, quản giáo. Cái buồn của tâm thức tác giả nơi đây không phải là sự chịu đựng những đoạ đày, mà khổ nhục hoá thân. “Ta” hoá thân thành vượn cổ sơ để sống còn. Ta không bị người khác biến ta thành vượn cổ sơ. Ta không đồng hoá với loài man rợ. “Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu”, rừng im tiếng từ khai thiên lập địa. Người tù cũng im lặng như rừng để bảo tồn khí tiết. Quả là một người tử tế trong “những người tử tế” – “những người tù cải tạo đều là những người tử tế…” Hà Thượng Nhân đã viết. Có thể, ngay nhà thơ Tô Thùy Yên cũng không đồng ý với cách hiểu bài thơ “’Ta Về” theo chiều hướng này. Nhưng một tác phẩm đúng nghĩa về nghệ thuật và có giá trị về nội dung, sẽ không ngại góc độ soi chiếu của lịch sử hay thời gian. Qua mỗi lăng kính khác nhau, tác phẩm đều mở ra những giá trị mới hơn cho người đọc. Từng câu chữ trong “Ta Về” là một thế giới của sáng tạo thơ từ và tâm cảm trùng trùng trong hạn hẹp của ngôn ngữ… Ta về qua những truông cùng phá Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ Nghe tàn cát bụi tháng năm bay Chỉ có thế. Trời câm đất nín Đời im lìm đóng váng xanh xao Mười năm, thế giới già trông thấy Đất bạc mầu đi, đất bạc mầu. Ta về như bóng chim qua trễ Cho vội vàng thêm gió cuối mùa Ai đứng trông vời mây nước đó Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ Một đời được mấy điều mong ước Núi lở sông bồi đã mấy khi Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động Mười năm, cổ lục đã ai ghi? Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi Đọc đoạn thơ hoài cảm, như nâng tâm hồn lên. Nhớ những “bước tới đèo ngang bóng xế tà/ cỏ cây chen đá lá chen hoa/ dừng chân đứng lại trời non nước/ một mảnh tình riêng ta với ta…” Hay cho tiền nhân đạt tới sự cô tịch của hoài cảm với ba chữ “ta với ta”. Tấc lòng dị dã đến kính phục bậc tiền nhân. Người đời sau, “nghe tàn cát bụi tháng năm bay” trước quê nhà xiêu xẹo, sau mười năm, Ta về. Không luận ai hơn ai, một câu thơ hay hơn có đổi được quê hương đã mất? Nỗi đau truyền kiếp của kẻ sĩ, không có hồi âm. Lòng hoài cảm tịch liêu hiếm gặp trong thơ từ đạt tới cảnh giới vô ngã. Hoàn toàn không phải là từ bi bất ngờ khi “cúi mái đầu sương điểm” mới “nghe nặng từ tâm”. Tự tâm nghe được đất trời chia chung nhát cắt, nỗi đau mà bật thành lời tri âm tri kỷ, “Cảm ơn hoa đã vì ta nở”. Câu thơ đẹp không có giai nhân/ là sự cảm thụ khác biệt của thơ và văn vần, vè. Cảnh giới của ý và từ trong câu thơ “ngộ” này đã thoát ra riêng một chỗ ngồi. Mở ra cánh cửa từ lâu khép chặt của tâm thức con người u mê qua ngũ giác. Mắt thấy được không sắc, tai nghe được không động, mũi ngửi được không mùi, lưỡi nếm được không vị, tay sờ được không cùng. Tâm thức con người đạt tới vô ngã thì có thể cảm nhận được độ lượng của vô vi, “thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. Cảm ơn nhà thơ Tô Thùy Yên đã tiên phong bứt phá ra khỏi những lối mòn xưa cũ của thơ ca. Nhưng không thiếu những làn điệu ca dao đã truyền miệng ngàn đời trên dải đất quê nhà. Hình ảnh trống ngũ liên trong “Lính thú đời xưa” khiến người ta rơi lệ, “thùng thùng trống đánh ngũ liên/ bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa…” Trống ngũ liên trong “Ta Về” đối lập, tiếng trống thúc người đi cứu nước, xây nhà… “Người đi như cá theo con nước/ trống ngũ liên nôn nả gióng mừng”. Nhưng chỉ là mộng thôi, nỗi khao khát trong tuyệt vọng, hoài bão lúc lâm chung. Thực cảnh sau cơn mơ giả tưởng là, “ta về như lá rơi về cội/ bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ chút rượu hồng đây xin rưới xuống/ giải oan cho cuộc biển dâu này”. (suu tam qua email.ST )
| |
|