LỜI TÌNH TỰ CHO QUÊ HƯƠNG
Tùy bút : Song An Châu
Từ ngàn năm trước, đồng bào tôi như một rừng lao sậy sau cơn giông tố bão bùng, ngã rạp xuống; nhưng không khuất phục, không hèn hạ đã vùng lên đạp bằng sóng dậy, không sợ đầu rơi, máu chãy, banh thân vì lằn tên mũi đạn. Biết bao năm khổ ải dưới gót giày của kẻ ngoại xâm. Đoàn người đi trước ngã xuống, kẻ đi sau đứng vùng lên chóng chỏi với lằn tên mũi đạn, tù đày, gông xiềng, roi vọt …rồi cũng tháo gỡ được ách ngoại xâm tròng vào đầu, vào cổ đồng bào tôi.
Sau “một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”, những tưởng con cháu mang dòng giống Tiên Rồng đã mất gốc; nhưng đã vùng lên đánh đuổi kẻ ngoại xâm, nối nghiệp tiền nhân giữ nước và dựng nước đã làm rạng danh vùng đất nhỏ bé hình cong chữ S, bên bờ Thái Bình Dương, phía dưới cùng vùng đất bao la của kẻ một thời thống trị đã xanh tươi ruộng đồng, cây trái đơm bông, người người cười vui hạnh phúc.
Niềm mơ ước cháy bỏng này của đồng bào tôi sau khi cởi bỏ xiềng xích của kẻ ngoại bang là tạo dựng một quốc gia an bình, hạnh phúc, tự do cho toàn dân; nhưng đã phải chịu cảnh nồi da xáo thịt, hơn “hai mươi năm nội chiến từng ngày” . Bom đạn, súng óng, máy bay, xe tăng, tàu chiến của những đế quốc mang nhản hiệu: China, Russia, USA nhồi nhét vào tay dân tôi, bảo tụi mày cứ giết nhau đi để được Hòa Bình, Tự Do, Ấm No, Hạnh Phúc, Dân Chủ, Dân Quyền …
Nghe lời ngon ngọt rĩ rã bên tai, ngày qua tháng lại, dân tôi xìu lòng ôm lấy niềm đau sau hơn hai mươi năm đầu rơi máu chảy, thịt tan, xương nát … một phần đất, đảo và biển đã lọt vào tay kẻ bá quyền phương Bắc.
Mẹ Việt Nam chít khăn tang, mắt nhòa lệ khóc. Người thiếu phụ ôm con nhìn ảnh chồng trên bàn thờ khói hương nghi ngút. Đứa con thơ mất cha, người mẹ hiền buồn thương đứa con trai ra đi vĩnh viễn. Người tình bé bỏng hậu phương ngàn năm xa vắng người thương chết trận.
Tre già khóc măng. Người cha vừa nhận xác đứa con cả trong gói poncho hôi mùi tử khí từ chiến trường Quảng Trị đưa về. Đứa con kế theo đoàn quân giải tỏa chiến trường Huế bặt tin. Thằng cháu nội nghe đâu còn nằm điều trị tại bệnh viện Cộng Hòa, Sài Gòn. Tuổi già sức yếu ông không đi thăm cháu được.
Hôm trước má nó đi thăm con về, nói với ông nội nó:
- Thằng Tý, nó cũng khỏe rồi Ba. Chắc nó phải nằm viện điều trị một thời gian nữa không lâu đâu Ba.
- Ờ! Chừng nào nó xuất viện con lên rước nó về.
- Con kẹt mấy đứa nhỏ, chắc con không đi được đâu Ba. Con có hỏi trên đó, họ nói có chuyến xe về miền Tây thì họ đưa nó về luôn. Không sao đâu, Ba đừng lo.
- Vậy cũng được. Ờ! Nó bị sao đó con?
Cô con dâu rơm rớm nước mắt, im lặng đi vào nhà sau. Lời nói uất nghẹn ở cổ họng, không đáp lời ông già chồng được.
Trời nắng nóng. Ông Hai bê bình trà cũ kỹ và cái chung sành đít tròn mà trên hai mươi năm ông trân quý gìn giữ, di cư theo ông từ miền Bắc hồi năm Năm tư (1954). Ông đã bỏ làng xóm thân yêu, nhà cửa, ruộng vườn cùng hơn một triệu người khăn gói vào miền Nam theo tiếng gọi Tự Do.
Trời nóng. Ông cởi vài cái nút áo, phanh ngực áo ra, lấy cái quạt kè phe phẩy cho mát. Rót chung trà nhâm nhi, dựa lưng vào góc cây vú sữa, tàn lá che bóng mát rượi, trong sân nhà, ông lim dim ngủ.
- Ông nội! Khỏe không ông nội?
Ông Hai giật mình tỉnh giấc trong mơ…, nhỏm bật dậy, lấy tay dụi cặp mắt lờ, cố nhướng mắt nhìn người vừa hỏi đối diện:
- Đứa nào vậy ?
- Trời ơi! Ông không nhận ra cháu sao ông nội? Cháu là thằng cu Tý nè ông nội!
- Ờ …ờ, con thằng hai Mẩn hả?
- Dạ!
Ông Hai giương đôi mắt lờ lệch, chăm chăm nhìn thằng Tý từ đầu đến chân …
Bộ đồ lính còn mới, một bên óng quần chân trái xăn lên tận đầu gối …Nó vừa xuất viện từ bệnh viện Cộng Hòa về với đôi nạng gổ. Ngày mẹ nó sanh nó ra hai chân, bây giờ nó đi ba chân.
- Mầy đó hả Tý?.
Ông Hai hỏi, rồi ông òa lên khóc. Giọt nước mắt cuối cùng trong đời ông. Vì một phần vào tuổi trung niên khi bước xuống tàu di cư vào miền Nam ông đã để lại phân nửa trên quê hương mến yêu đất Bắc. Phần còn lại, tre khóc măng, dành cho thằng con cả ra đi vĩnh viễn hồi Tết Mậu Thân 1968. Giờ chỉ cho thằng cháu nội những giọt nước mắt cuối cùng trong đời, khi thấy nó về với hai nạng gổ …
Tý bỏ đôi nạng gổ, xà xuống ôm ông nội. Hai ông cháu ôm nhau, nước mắt ràn rụa, như đôi tình nhân lâu ngày mới gặp lại....
Nhìn góc cây vú sữa, Tý nhớ lại lúc còn nhỏ năm, sáu tuổi thường cùng ông nội, vào những buổi trưa hè ra đây hóng mát, nằm vào lòng ông nội, có nhiều lần ngủ thiếp đi, đến khi ông nội lay dậy vào nhà ăn cơm chiều ....
Song An Châu
GA, chiều đông đất khách 2009