MỘT THỜI NIÊN THIẾU
* Tùy bút : Song An Châu
Tôi sanh ra và lớn lên tại một làng quê ven bờ sông Hậu. Làng Đa Phước, Châu Đốc. Làng này nằm trên một cù lao giữa lòng sông Hậu, chia đôi dòng nước bắt đầu từ nước láng giềng Kampuchia. Cù lao này rất lớn, bao gồm nhiều xã, nếu kể từ biên giới Việt-Miên (Kampuchia), từ quận Kandal, tỉnh Svayrieng, gồm thứ tự từ trên xuống có các Xã Khánh Bình, Khánh An, Phước Hưng và Đa Phước. Cuối cùng cù lao là dãy đất bồi Cồn Tiên thuộc xã Đa Phước có bến đò nhộn nhịp người, xe cộ qua lại thị xã Châu Phú, Châu Đốc.
Tôi là đứa bé nhà quê lớn lên tại một làng quê bình thường, hơn 80 phần trăm là nông dân sống với nghề ruộng rẫy, số còn lại là thương buôn nhỏ, hoặc hành nghề có tánh cách gia đình như thợ mộc, thợ nề, giăng câu, chài lưới tùy theo mùa hay rảnh việc đồng áng.
Quê tôi cũng như phần lớn làng quê miền Nam Việt Nam, không giàu có sung túc gì cho lắm, vì nông dân còn canh tác với tánh cách cổ xưa, do ông bà truyền lại, chưa được cơ giới hóa trong thời tôi còn là một đứa bé năm, sáu tuổi, cách đây cũng hơn 60 năm rồi (năm 1945, 1946). Sau này mới chỉ cơ giới hóa một phần trong khâu cày bừa, suốt lúa ra hột, chớ chưa dùng máy móc toàn diện như các nước tân tiến hiện thời.
Cha tôi được bên nội chia phần cùng các chú, bác, cô, dượng được hơn một mẫu đất tại Ấp Phước Thọ, làng Đa Phước. Tuy thuộc gia đình nông dân, nhưng cha mẹ tôi không theo nghề ruộng rẫy. Sau khi lập gia đình, cha mẹ tôi sống chung với chú bác cô dượng, trong một đại gia đình, theo phong tục cổ xưa, tam tứ đại đồng đường, cùng làm chung ăn chung. Nhận thấy cuộc sống chung đụng như thế không thể phát triển gia đình, nuôi dưỡng con cái sau này hoàn hảo được và thường có chuyện xích mích, tranh chấp giữa các chị em bạn dâu với nhau, tạo nên cảnh bất hòa giữa anh em ruột thịt trong gia đình. Vì thế cha mẹ tôi bồng chống về sống bên ngoại tôi ở ấp Phước Quản, cùng làng Đa Phước, ngang thị xã Châu Đốc, cách nơi ở cũ khoảng năm cây số.
Bên ngoại tôi sống nghề thương buôn, có một chiếc ghe trọng tải khoảng năm, sáu tấn, mua bán hàng hóa, nông sản, cá khô hai chiều, từ Châu Đốc qua Nam Vang, Cao Miên. Ba mẹ tôi theo ghe buôn bán, quản lý hàng hóa và tính sổ sách, có mướn hai người bạn (người làm công) chèo ghe, cà rịch cà tang ( thời gian này chưa có máy móc cho ghe, tàu) , từ Châu Đốc qua Nam Vang, ngược dòng sông Hậu đến Biển Hồ, cũng mất ba, bốn ngày đường. Mua bán xong, quay về Châu Đốc. Cha mẹ tôi cứ tiếp tục vòng quay này theo tháng ngày, đến khi chị em tôi khôn lớn.
Việc buôn bán của cha mẹ tôi ngày càng sa sút, không đuợc thuận lợi như lúc trước và chị em tôi càng ngày nẩy nở, tăng thêm “ nhân khẩu” và vì xa nhà buôn bán không ai săn sóc con cái, nên cha mẹ tôi tính đường thối lui về nội để sanh sống, nương tựa vào anh em và hơn chục công ruộng từ lâu đã cho mướn.
Việc”thắng về nội, thối về ngoại” này của cha mẹ tôi, trên bước đường di cư, đổi chỗ ở cũng ảnh hưởng đến việc học hành của tôi thời trẻ.
Sau khi mua một mảnh đất cất nhà, gần nhà ông nội tôi, tạm ổn việc ăn ở. Cha mẹ tôi lo phần ruộng rẫy và để tăng phần thu nhập cho gia đình, ông bà đã mở một gian hàng bán tạp hóa nhỏ trước nhà, để hai người chị lớn của tôi trông coi.
Sở dĩ tôi dài dòng văn tự như trên vì khi tôi lớn lên, cha mẹ, các chị tôi (tôi không có anh - tôi là tai lớn trong gia đình) bận lo sinh kế hàng ngày, nên việc học hành, chăm sóc con em, phần lớn những gia đình trong làng quê thời đó, cũng như gia đình tôi việc chăm sóc dạy dỗ con, em không được chu đáo, chặt chẽ cho lắm. Vì thế khi tôi lớn lên, biết tự sinh hoạt thì chỉ ham chơi hơn ham học, hàng ngày theo lớp trẻ con cùng lứa năm, sáu tuổi ra đồng vớt cá lia thia, bắt dế về hợp nhau cho đá xem chơi, hoặc theo các cậu bé chăn trâu, giữ bò lớn hơn, đi gài bẩy cò, đuổi bắt chim, bắn nạng dàn thun.
Đến 6 tuổi, tôi mới được cấp sách đến trường học vỡ lòng. Nói là trường, thật ra đó là một bên chái đình làng, thường dùng để quý vị hương chức hội tề, quan khách yến tiệc mỗi khi cúng đình, lễ hội, được biến thành trường học, tróng trơn, không vách ngăn, không cửa nẻo chi cả. Lớp học thì kê một số bàn gỗ sơ sài mà các viên chức trong làng huy động thợ mộc, dân trong làng thực hiện không trả tiền công. Trường có ba lớp: lớp năm, lớp tư và lớp ba (lớp một, hai, ba bây giờ). Mỗi lớp học một dãy bàn. Thiếu giáo viên, thầy dạy tôi lớp năm kiêm luôn lớp tư và một thầy nữa phụ trách lớp ba. Cùng học chung trong một gian nhà, không ngăn vách, nên lớp học luôn luôn ồn ào với đám trẻ liếng thoắng, thường hay trửng giởn trong lớp. Do đó, những tiếng “cốp cốp, cạch cạch” thường vang lên từ đầu lớp học, bởi chiếc thước bảng mà hai thầy gõ lên bàn, để bảo đám học trò choi choi, khó dạy chúng tôi, kèm theo hai tiếng “ im lặng, im lặng” của hai thầy !.
Qua ba năm học hết lớp ở trường làng, cha mẹ tôi mang tôi lên học trường Quận, tại quận An Phú (Châu Đốc), một quận giáp ranh với biên giới Việt-Miên vừa đươc thành lập, sau hiệp định Geneve 1954, chia đôi đất nước. (Sau khi học xong trung học, tôi về đây giữ chân Thơ ký Quận vào giữa năm 1960 đến tháng 4 năm 1965). Cha mẹ tôi cũng đã dời địa điểm buôn bán từ làng quê lên quận này. Học xong lớp Nhì ( lớp 4 bây giờ) trường quận, cũng hết lớp nơi đây. Tôi được cha mẹ tôi cho tiếp tục học lớp Nhất (lớp 5) trường nam Tỉnh lỵ Châu Đốc, vào năm 1952.
Thời gian trôi qua rất mau, như bóng câu qua cửa, như vừa giật mình thức dậy, sau giấc mộng kê vàng. Tôi không bao giờ quên được những bước chân đầu đời của cậu bé nhà quê lên Tỉnh. Đi chân đất, còn lấm phèn, mùi ruộng đồng còn vương vấn ở làn da, tấm áo. Ngày đầu tiên vào lớp, bạn bè cùng lớp chưa quen, nhìn nhau ngơ ngát. Ông thầy ít nói, hơi nghiêm nghị, dáng dẽ gầy gầy, là hình ảnh đầu tiên khi tôi bước vào lớp học trường tỉnh. Ngày đầu tiên, còn ghi khắc sâu đậm trong tâm tư tôi. Đến nay đã hơn 50 năm qua rồi mà chưa phai nhòa trong ký ức. Đó là thầy Châu văn Tính, có đứa con trai là Châu minh Kiến học cùng lớp Nhất với tôi năm đó, sau này Kiến là một sĩ quan, một anh hùng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu đối đầu với những người bên kia chiến tuyến, trước năm 1975.
Sau 6 năm (1954-1960) miệt mài trên khung ghế nhà trường trung học THỦ KHOA NGHĨA, Châu Đốc, tôi đã có biết bao kỷ niệm giữa tình bạn bè, thầy trò, trường lớp. Đã hơn 45 năm qua rồi, biết bao thăng trầm trong cuộc sống, biết bao thay đổi từ vật chất đến tâm hồn con người. Hôm nay đây, giữa đất trời xa lạ, biền biệt xa cách quê hương vạn dậm, ngồi ôn lại những kỷ niệm xa vời còn sót lại trong đáy lòng, với niềm nuối tiếc không nguôi. Những hình ảnh thân thương của tuổi học trò áo trắng, chưa vướng bụi trần, lần lượt ẩn hiện, nhạt nhòa như cuồn phim cất trong kho lâu ngày, giữ làm tư liệu, nay đem ra trình chiếu lại, để tìm dấu viết một chuyện đời đã qua, giờ đã phai mờ, cái còn cái mất.
Những kỷ niệm thời trung học, còn lưu dấu trong đáy lòng tôi, nhớ đâu tôi nói đó, không theo thứ tự thời gian, tràn lan như nước vỡ bờ trên vùng đất thân thương của tuổi vàng, thời niên thiếu mới vừa chớm yêu, dạt dào tình cảm trước vầng thái dương của cuộc đời, nhìn đâu cũng chan hòa ánh sáng.
Tình bạn cũng sớm nẩy nở giữa tôi với các bạn cùng lớp, chung trường. Tôi và anh bạn Đinh văn Mỹ kết giao thân thiện như anh em một nhà, từ những ngày đầu bước chân vào trường trung học Thủ Khoa Nghĩa. Tôi cũng thường đến nhà bạn Mỹ tụ tập anh em đàn ca, xướng hát những bản nhạc thịnh hành thời đó như: Gạo trắng trăng thanh, Trăng rụng xuống cầu, Thuyền trăng v.v….rất tưng bừng, vui nhộn. Những ngày nghỉ lễ hay thứ bảy, chúa nhật, anh em kéo nhau đi vườn nhản Mỹ Đức hay đi chơi viếng cảnh núi Sam, núi Tô, núi Két vùng thất sơn, thật ấm tình bè bạn.
Cha mẹ bạn Mỹ cũng thương tôi như con trong gia đình. Tôi thường ăn ngủ tại nhà bạn Mỹ. Cha của bạn Mỹ là Ông Đinh văn Tầm, tài xế Ty Công Chánh, Châu Đốc. Sau này, khi bạn Mỹ rời trường, đi làm giáo viên và là Hiệu Trưởng một trường tiểu học ở Xã Bình Mỹ (Châu Phú, Châu Đốc). Mỹ đã về bên kia thế giới vào lúc tuổi đời còn xanh, để lại vợ và hai đứa con thơ. Bạn Mỹ chết vì bịnh trước năm 1975, khi cuộc chiến chưa tàn.
Thời niên thiếu vừa bước qua ngưởng cửa tuổi thơ, ai cũng có nhiều mơ mộng, nhìn đời qua ánh sáng hào quang trước mặt. Sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước năm 1954, miền Nam Việt Nam có thể nói là nhân dân sống trong thanh bình, yên ổn. Nhất là đám thanh niên mới lớn chúng tôi còn sống trong cái nôi ấm cúng và được sự bảo bộc của gia đình. Hằng ngày chỉ tung tăng cấp sách đến trường, không lo gì ngoài chuyện học hành. Vì thế chúng tôi có nhiều cao vọng, nhiều mộng đẹp cho cuộc sống tương lai. Đứa thì nói, tao học xong trung học, sẽ học tiếp để trở thành bác sĩ, kỷ sư, nhà khoa học, vài đứa khác nói tao sẽ vào học trường Quốc Gia Hành Chánh hay trường đào tạo sĩ quan Võ Bị Đà Lạt hay Thủ Đức, sau này giữ chức vụ then chốt trong chánh quyền hay quân đội.
Anh em chúng tôi chưa nghĩ gì đến tương lai, nên không có cao vọng vừa kể trên, nên họp lại thành một nhóm tập tành viết văn, làm thơ. Bất kỳ trong thể chế nào, quân chủ hay dân chủ tự do, khi đất nước thanh bình, người dân sống trong cảnh hoan lạc, no ấm thì văn hóa, văn chương của quốc gia đó, luôn luôn được phát triển, vươn cao. Được sự hấp thụ qua những dòng văn thơ tuyệt tác của các bậc tiền bối như : Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Ôn Như Hầu, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu và những nhà văn, nhà thơ cận đại của nhóm Tự Lực Văn Đàn và của Phan Bội Châu, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Tế Xương, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử v.v …, qua những bài học trong trường, những sách vở, báo chí ngoài đời đã thôi thúc chúng tôi muốn trở thành những nhà thơ, nhà văn. .
Vì thế chúng tôi đã họp nhau từng nhóm trong trường thành lập các nhóm văn nghệ. Vào thời đó, khoảng cuối thập niên 50 (1955-1960), tình hình đất nước yên ổn, nên trên phương diện văn chương, báo chí phát triển rất mạnh. Ảnh hưởng qua những bài học văn chương trong trường, những sách báo ngoài đời. Với tâm hồn mơ mộng dat dào, anh em cùng trang lứa chúng tôi tập tành viết những bài tùy bút, truyện ngắn, những bài thơ thổn thức tình yêu vừa chớm dậy, truyền tay nhau xem hay gởi đến những tờ báo xuất bản riêng cho lứa tổi học trò ở Sài Gòn. Nhiều anh em rất vui mừng khi những tác phẩm đầu đời của mình được đăng trên báo. Rồi thích thú, quen dần trong việc viết lách, anh em cùng chí hướng họp nhau thành lập nhóm văn nghệ, văn đàn, thi văn đàn.
Tôi còn nhớ lúc đó, anh em chúng tôi đang học lớp Đệ Tứ (lớp 9 bây giờ) niên khóa 1956-1957, của trường Trung Học THỦ KHOA NGHĨA, Châu Đốc, đến giờ Việt văn của thầy Lưu Trung Khảo (hiện nay định cư ở California), anh em chúng tôi luôn im lặng, chăm chú nghe những bài giảng về kim văn, cổ văn của thầy một cách say mê.
Vào khoảng năm đó, anh em thích văn nghệ chúng tôi, gồm các bạn cùng lớp, cùng trường có liên hệ thơ văn với nhau thành lập một Thi Văn Đàn lấy tên THẾ KỶ, gồm có các bạn : Nguyễn Hải Thệ bút hiệu Huyền Dân sau đổi là Ngy Do Thái, Dương Ngọc Ánh bút hiệu Hàn Thanh, Nguyễn thị Điển bút hiệu Mai Thanh Tuyền, Trương Bá Trạc bút hiệu Mặc Lan Hoài, Nguyễn thị Bé Tám (?) bút hiệu Phương Mai, Lệ thùy Lam và tôi Phan Ngọc Châu bút hiệu Song An Châu. Một số anh chị em này đang định cư ở Hoa Kỳ và cũng tiếp tục làm thơ, viết văn, làm báo. Cái nghiệp mê văn chương luôn đeo đẳng vào thân !.
Sau này, một vài anh em cùng trường như: Ngô Nguyên Nghiễm (Ngô Tấn Thiền), Thương Hoài Diệp (Phạm Yến Anh), Nhất Thắng (Nguyễn Minh Thanh), Hoài Ziang Duy (Thái sanh Lợi), Đỗ Kim Bảng…cùng họp tác với chúng tôi thực hiện những tờ bích báo, đặc san Xuân cho trường hay những giai phẩm, đặc san của nhóm bỏ tiền túi ra ấn hành, rồi đem đi giới thiệu (bán) các trường bạn như Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên), Phan Thanh Giản (Cần Thơ), Tống Phước Hiệp (Vĩnh Long), Tống Phước Hòa (Sa Đéc)….
Nghĩ lại, thời gian này trong tuổi thanh xuân, cuộc đời chưa vướng bụi trần, tâm hồn thơ thới, yêu đời, nay thì đã quá xa xôi mà lòng luôn luyến tiếc.
Hôm nay, nơi đất khách quê người, vì nạn trời ách nước, phải lìa xa quê hương yêu dấu, ngàn dặm xa xăm, hình ảnh mẹ già lưng còng, gối mõi, tay rung, tóc bạc, con sông, dòng nước Hậu giang đục màu phù sa, bến đò xưa đưa khách, hàng ngày tôi và các bạn ôm cặp xuống đò qua bên kia sông đến trường học tập, nay đã đi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn nhớ thương, nuối tiếc.
Sau hơn năm mươi năm dài đăng đẳng, nay còn đâu những hình ảnh thân thương của trường xưa, bạn cũ, thời niên thiếu đã đi qua. Cát bụi thời gian đã xóa mờ trong ký ức. Trường xưa đã đổi chỗ, bạn bè tha phương tứ xứ, có nhiều đứa ra đi, hóa ra người thiên cổ, kẻ ở lại, còn đây không khỏi ngậm ngùi nhớ tiếc những hình ảnh êm đềm, đẹp đẽ ngày xưa mà lòng đau, dạ xót không nguôi …..